Hình thành 2 trung tâm vận tải hàng không đầu mối trung chuyển quốc tế
Theo Quy hoạch, mục tiêu đến năm 2030, phát triển hệ thống cảng hàng không (CHK) theo hướng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu vận tải, hội nhập quốc tế sâu rộng; bảo vệ môi trường, tiết kiệm các nguồn tài nguyên.
Bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 với một số mục tiêu cụ thể.
Đến 2050, hình thành 2 trung tâm vận tải hàng không đầu mối trung chuyển quốc tế ngang tầm khu vực.
CHK quốc tế Nội Bài, Hà Nội
Về vận tải, tổng sản lượng hành khách thông qua các CHK khoảng 275,9 triệu hành khách (chiếm 1,5 -2% thị phần vận tải giao thông và chiếm 3 - 4% tổng sản lượng vận tải hành khách liên tỉnh).
Tổng sản lượng hàng hóa thông qua các CHK khoảng 4,1 triệu tấn (chiếm 0,05 - 0,1% thị phần vận tải giao thông).
Về kết cấu hạ tầng, ưu tiên tập trung đầu tư một số CHK lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội (CHK quốc tế Nội Bài) và vùng TP.HCM (CHK quốc tế Tân Sơn Nhất và Long Thành).
Từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả các CHK hiện hữu, tiếp tục nghiên cứu, đầu tư các CHK mới để nâng tổng công suất thiết kế hệ thống CHK đáp ứng khoảng 294,5 triệu hành khách, phấn đấu trên 95% dân số có thể tiếp cận tới CHK trong phạm vi 100km.
Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, thiết bị quản lý bay theo hướng đồng bộ, hiện đại, ngang tầm khu vực, đáp ứng nhu cầu vận tải. Từng bước đầu tư các trung tâm logistics, trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay.
Tầm nhìn đến 2050, hình thành 2 trung tâm vận tải hàng không đầu mối trung chuyển quốc tế ngang tầm khu vực tại vùng Thủ đô Hà Nội và vùng TP.HCM. Đầu tư đưa vào khai thác các CHK mới phấn đấu khoảng 97% dân số có thể tiếp cận tới CHK trong phạm vi 100km.
Mở rộng, nâng cấp các CHK tại các trung tâm kinh tế vùng, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng và thiết bị bảo đảm hoạt động bay, đồng bộ, hiện đại ngang tầm quốc tế; hình thành các trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay hiện đại.
Hệ thống CHK được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính
Về Quy hoạch hệ thống CHK toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, hệ thống CHK được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Thủ đô Hà Nội và khu vực TP.HCM, hình thành 30 CHK.
Cụ thể, 14 CHK quốc tế: Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc; 16 CHK quốc nội: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Thành Sơn và Biên Hòa (sân bay Thành Sơn và sân bay Biên Hòa được quy hoạch thành CHK để khai thác lưỡng dụng).
Tiếp tục duy trì vị trí quy hoạch CHK quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng phê duyệt (tại Quyết định số 640 năm 2011) tại huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng.
Hình thành 33 CHK, bao gồm: 14 CHK quốc tế: Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc;
19 CHK quốc nội: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Cát Bi, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Biên Hoà, Thành Sơn và CHK thứ 2 phía Đông Nam, Nam Thủ đô Hà Nội.
Về hệ thống bảo đảm hoạt động bay, đầu tư, hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay tại tất cả các CHK đáp ứng yêu cầu bảo đảm hoạt động bay an toàn với tầm nhìn dài hạn, hiệu quả gắn với nhiệm vụ tham gia đảm bảo an ninh, chủ quyền vùng trời và tuân thủ các yêu cầu, tiêu chuẩn của ICAO.
Bố trí các trung tâm logistics tại các CHK có nhu cầu vận tải lớn
Bố trí các trung tâm logistics tại các CHK có nhu cầu vận tải lớn hơn 250.000 tấn/năm. Các trung tâm logistics đảm bảo các điều kiện về kho vận và kết nối các loại hình giao thông thích hợp để vận tải hàng hóa tại các CHK gồm: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Vân Đồn, Cát Bi, Đà Nẵng, Chu Lai, Long Thành, Cần Thơ và một số CHK khác khi có nhu cầu vận tải hàng hóa đạt tiêu chí nêu trên. Hình thành trung tâm logistics trung chuyển hàng hóa quốc tế tại CHK Chu Lai.
Bố trí các trung tâm đào tạo và huấn luyện bay với quy mô phù hợp với nhu cầu đào tạo trong nước cũng như khu vực tại các CHK có mật độ cất hạ cánh không lớn, thuận lợi về yếu tố địa hình, thời tiết cho hoạt động bay, cách khu vực biên giới trên 50 km, ưu tiên tại các CHK Chu Lai, Rạch Giá và Cà Mau.
Xây dựng các trung tâm bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay tại các CHK có nhu cầu. Ưu tiên xây dựng các trung tâm bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay tại các CHK lớn, có điều kiện tốt về hạ tầng, đường bay quốc tế gồm: Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Chu Lai, Cam Ranh, Cần Thơ, Long Thành; Trung tâm sửa chữa lớn của khu vực tại CHK Chu Lai.
Xây dựng mới hoặc mở rộng các CHK tại vùng sâu, vùng xa
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống CHK đến năm 2030 khoảng 420.000 tỷ đồng, được huy động từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng các CHK quốc tế quan trọng, đóng vai trò đầu mối như: Long Thành, Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phú Quốc.
Đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng các CHK tại vùng sâu, vùng xa, vùng núi, hải đảo; các CHK có hoạt động quân sự thường xuyên; và các CHK khác trong hệ thống đáp ứng nhu cầu khai thác, phát triển kinh tế - xã hội.